16.01.2011
Rồng
là linh vật truyền thuyết của nhiều dân tộc trên thế giới. Mỗi địa
phương, mỗi thời điểm, nó mang chức năng và hình dạng khác nhau.
Bài
này chỉ giới hạn trong hình dạng con Rồng qua lịch sử mỹ thuật Việt
Nam, dĩ nhiên là thỉnh thoảng cũng phải đề cập đến nguồn gốc của nó cho
rõ nghĩa. Để bạn đọc dễ bề theo dõi, chúng tôi tạm phân biệt bốn giai
đoạn trong tiến trình tạo hình con Rồng :
- Rồng Văn Lang, từ vùng sông Hồng đến Thanh Hóa, trước Tây lịch
- Rồng Giao Chỉ, từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ X, chịu áp lực văn hóa Hán tộc.
- Rồng Đại Việt, thời Lý Trần (TK X – XIV)
- Rồng thời Lê Nguyễn, (từ TK XVI) dần dần bị ảnh hưởng Trung Quốc.
Miêu
tả như vậy, là theo dòng lịch sử. Nhưng lịch sử nghệ thuật không nhất
thiết phải liên tục, phải duy lý, trải qua bốn ngàn năm ghềnh thác. Có
thể hình dạng con Rồng ta thấy ngày nay không can hệ gì đến những hoa
văn trên đồ đồng của tổ tiên ta thời Đông Sơn, cho dù có đôi đường nét
chung. Liên hệ có khi chỉ là thành kiến : chúng ta tự cho là con Rồng
cháu Tiên, vậy con Rồng của chúng ta ngày nay phải là hậu duệ của con
Rồng Lạc Long Quân. Cái tình là như vậy. Cái lý muốn như vậy. Nhưng
lịch sử mỹ thuật chưa chắc đã liên tục.
Bài
này cung cấp hình tượng Rồng qua những giai đoạn, nhưng không dám khẳng
định con rồng này là tiến trình của con rồng kia. Nghệ nhân thời Lê, và
ngày nay, vẽ con rồng, chưa chắc gì đã biết đến con Rồng thời Lý – đặc
biệt Việt Nam – đừng nói gì đến con Rồng Văn Lang. Chúng ta không nên vì
tự hào dân tộc mà suy luận sơ đẳng.
Khái
niệm Rồng có thể xuất hiện từ thời rất xa xưa, dĩ nhiên không phải dưới
danh xưng “Rồng”. Tổ tiên ta gọi “con ấy” là con gì thì không ai biết.
Sử sách có nói đến con thuồng luồng, con giao long : người Văn Lang thời
đó “xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại nên có tục xâm mình theo dạng thủy quái để tránh tai họa giao long”
,theo Lĩnh Nam Chích Quái, truyện họ Hồng Bàng. “Dạng thủy quái” ra
sao, chúng ta không rõ, nó có phải là tiền thân con Rồng hay không, cũng
chỉ là suy đoán. Có thuyết nói : chữ “thuồng luồng” phát sinh ra chữ
“long” rồi biến âm thành chữ “rồng”. Nhưng theo cố giáo sư Nguyễn Tài
Cẩn, thì ngược lại, từ “rồng”có trước, vào thời Hán, chữ “thuồng luồng”
xuất hiện về sau, vào thời Đường. Theo ông, thời tiền sử, người Việt gọi
rồng bằng cái tên gì khác, như là rắn hay cá sấu.
Hai chữ giao-long có nghĩa là “cá sấu-rồng”. Nhà nghiên cứu mỹ thuật
Huỳnh hữu Ủy cho biết, trong tiếng Mường còn chữ “con khú – con rôông”
để chỉ con cá sấu, con rồng, và còn câu tục ngữ “con khú làm chồng, con rồng làm nhân ngãi”.
Nói
chung, nhiều sử gia cho rằng giao long trong sử cũ là cá sấu, bách
hại đời sống nông dân và ngư dân cả vùng Đông Nam Á, bằng cớ là mãi đến
đời Trần, Nguyễn Thuyên còn phải làm văn tế cá sấu (1282). Mặt khác các
vua nhà Trần có truyền thống thích hình rồng vào đùi, cho đến đời Trần
Anh Tông (1299) mới bỏ. Sử sách còn chép rõ chuyện này.
Hình
ảnh sấu-rồng, giao long sớm nhất còn lưu dấu đến ngày nay, có lẽ là hoa
văn khắc chạm trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) khoảng một nghìn năm
trước Tây Lịch : hình một cặp cá sấu đối diện liên kết với nhau (hình
1).
1. Giao long khắc trên thạp đồng Đào Thịnh
Đây
là thời kỳ các bộ tộc Lạc Việt Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ bắt đầu định cư
chắc chắn và liên kết với nhau thành nước Văn Lang vùng châu thổ sông
Hồng và trung du lân cận dưới triều đại Hùng Vương. Các bộ tộc Âu Lạc
Việt đã bắt đầu xây dựng huyền thoại về nguồn gốc, sùng bái vật tổ
(totem, Rồng Chim) sau này sẽ trở thành truyền thuyết (chim) Lạc (rồng)
Long Quân. Dĩ nhiên là tên Lạc Long Quân sẽ xuất hiện về sau, có lẽ vào
giữa thời Bắc Thuộc dưới ảnh hưởng của Đạo giáo,”quân” là chức sắc cao
cấp trong tín ngưỡng Đạo giáo. Nhưng huyền thoại thì có trước. (Lạc còn
có nghĩa là ruộng Lạc).
Gần
gần với niên đại cặp giao long trên thạp đồng Đào Thịnh, Yên Bái , thì ở
Trung Quốc trên thạp đồng An Dương đời Thương đã xuất hiện hình rồng
hoàn toàn khác, vóc dáng khác, đầu có sừng giống sừng cừu. Từ đó ta có
thể nghĩ đến tính cách độc lập của “con rồng bản địa” của Văn Lang
Rồi
con giao long của sông Hồng dần dần được cách điệu hóa. Trên lưỡi giáo
tại Núi Voi thế kỷ thứ VI trước T L, hình giao long thon dài, đứng trên
bốn chân, sống lưng và có đuôi có xương mọc thẳng đứng (hình 2).
2. Lưỡi giáo núi Voi, tk VI trước TL
Theo học giả Bezacier: “con giao long (sấu) này sẽ được cách điệu để thành hình rồng về sau, thường gặp trong nghệ thuật Hoa, Việt”. Trên một mũi lao Đông Sơn, thế kỷ VI trước TL, giao long có bốn chân, bờm hất ngược, đuôi cong (hình 3).
3. Lưỡi giáo Đông Sơn, thế kỉ V trước Tl
Có
thuyết nói rằng hoa văn này đã chuyển sang Trung Quốc thời Chiến quốc
và ảnh hưởng đến con rồng Hán tộc về sau . Như con giao long trên một
tấm giáp đồng tìm thấy ở Ninh Bình (hình 4) hay trên một lưỡi rìu Đông
Sơn (hình 5), vẫn còn đầu cá sấu, nhưng đuôi đã dài ra và cuộn tròn như
đuôi rắn, cùng với hoa văn thời Hán.
4.Giao Long đậu trên mảng áo giáp đồng Ninh Bình (thế kỉ IV trước CN)
5.Đôi giao long trên lưỡi rìu Đông Sơn (thế kỉ II trước CN)
Theo
sử gia Lê Thành Khôi hình rồng của Việt Nam cũng như Trung Quốc nguyên
thủy là hình cá sấu, ngày nay vẫn còn tồn tại ở các nền văn hóa Đại
dương châu.
Sấu và chim là vật tổ của nhiều dân tộc Đông Nam Á trong đó có các bộ
tộc Lạc Việt và Âu Việt liên minh thành nước Văn Lang và Âu Lạc. Huyền
thoại Rồng Tiên, từ hình ảnh sấu- chim, hay truyền thuyết Lạc Long – Âu
Cơ có lẽ do đó mà sản sinh ?
Khi
nước Âu Lạc thời An Dương Vương (257-208 trước TL) bị nhà Hán thôn
tính, nhất là sau khi khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại (0040-0043)
thì nền văn minh Đông Sơn cũng tàn phai và xã hội lạc hầu, lạc tướng bị
phân hóa. Con rồng bản địa, con giao long của văn hóa sông Hồng cũng
đứt đoạn, dù cho, về sau, nó còn xuất hiện như ở Lạch Trường, trên một
đĩa đèn có cán hình đầu rồng,đã cải tiến, thế kỷ thứ III sau Tây lịch
(hình 5 bis).
5. bis, Đĩa đèn, đồng, tk III
Dưới
thời Bắc thuộc, con rồng Giao Chỉ có bốn chân, đuôi cong, thân hình
thon dài mềm mại, còn giữ hình dạng đầu cá sấu ở giai đoạn đầu như trên
một viên gạch nung thế kỷ 1 sau Tây lịch, tìm thấy ở một ngôi mộ vùng
Lim (hình 6).
6. Gạch nung, Giao Chỉ, tk I
Nhưng
sau đó, hình rồng sẽ thay đổi : đầu cá sấu biến dạng, nhường chỗ cho
đầu một con vật tưởng tượng, kết hợp nhiều nét động vật khác nhau, đặc
biệt có vẩy và có cánh, có râu hàm và lông chân, giống con rồng Trung
Quốc (hình 7).
7. Gốm Giao Chỉ, tk III
Sau
khi đất nước tự chủ, Ngô Quyền phá quân Nam Hán (938) con rồng Đại Việt
thoát ly ra khỏi ảnh hưởng phương Bắc : rồng thời Ngô, trên mảnh gạch
nung ở Cổ Loa, thân ngắn, không có cánh, đã báo hiệu những nét rồng Đại
Việt thời kỳ sau (hình 8).
8. Gạch nung, thời Ngô, tk X
Phải
đợi đến triều Lý (1010-1225) hình rồng dạng rắn mới phát triển dưới vóc
dáng rồng-rắn đặc biệt Việt Nam trong nhiều ý nghĩa : rồng là biểu
tượng của vương quyền “thiên tử”, theo gương vua Hán Cao Tổ. Rồng còn
tượng trưng cho các vua nhà Lý, là hình tượng của chủ quyền dân tộc
“dòng giống rồng tiên”, ước vọng phồn thịnh, mưa thuận gió hòa v.v… Khi
Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (1010) đặt tên quốc đô là Thăng
Long, là chọn một cái tên giàu ý nghĩa; chuyện “rồng vàng bay lên” để
đón vua e chỉ là truyền thuyết. Hai chữ Thăng Long chắc đã được Lý Thái
Tổ và quốc sư Vạn Hạnh chuẩn bị từ trước, chẳng cần đợi rồng bay.
(Thuyền vua đỗ dưới chân thành vào tháng 7 mưa ngâu, trông lên trời mây
ắt thấy rồng : tổ tiên ta tuyên truyền chính trị rất giỏi).
Con
Rồng triều Lý là một sáng tạo dân tộc, khác với rồng Trung Quốc : thân
hình thon dài như thân rắn uốn lượn trên một nhịp dần dần nhỏ lại về
phía đuôi nhọn, chân là chân chim móng vuốt nhọn sắc. Đầu có mào hình
chữ S, như mào chim hay rắn thần trong truyền thuyết, không có sừng như
rồng Tàu, nhưng có vòi, ban ơn mưa móc, uốn mình trong ngọn lửa; cái vòi
có lẽ do ảnh hưởng phương Nam, con rồng makara Chàm-Ấn. Miệng há rộng,
răng sắc đớp ngọc minh châu, nguyên là quả cầu tượng trưng cho mặt trời
và sấm sét. Râu, bờm, lông móng oai dũng kết hợp thành những đường nét
nhịp nhàng, hài hòa như một đất trời gợn sóng (hình 9 , và bản vẽ lại
của Trần Tuy).
9. Rồng nhà Lý, tk XI
Tư
tưởng chính trị, triết học, tôn giáo là của triều thần nhà Lý, nhưng
hình rồng là sáng tạo của nghệ sĩ dân gian. Ngày nay chúng ta tự hào và
ngạc nhiên tự hỏi : sao vào thời trung cổ cách đây cả ngàn năm dân tộc
ta đã có nền nghệ thuật tạo hình phong phú và tinh tế như thế ? Con rồng
thời Lý là bản sắc dân tộc, đỉnh cao của mỹ thuật Việt Nam. Hay nói như
Thái Bá Vân, “đến mỹ thuật Lý thì thẩm mỹ Việt Nam ở cái đỉnh mẫu mực của mọi vòng sáng tạo”. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cũng đã nhiều lần, từ 1944 về sau, ngợi ca con rồng này.
Triều
Trần (1225-1400) phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm
từ phía nam phía bắc. Cuộc chiến đấu gian lao và kiên cường đã tạo một
khí thế cho con rồng nhà Trần : nó vạm vỡ hơn, mập mạp hơn và tự nhiên
là phải bớt phần hào hoa, mềm mại (hình 10).
10. Rồng khắc gỗ, thời Trần
Nhưng
dần dần Khổng giáo chiếm ưu thế trên một nền phong kiến mỗi ngày một
chuyên chế, về cuối đời Trần con rồng Việt, phần nào đó, đã bắt đầu chịu
thêm ảnh hưởng rồng Trung Quốc.
Cho
đến đầu thời Lê (1428-1527), con rồng dù vẫn còn giữ đôi nét truyền
thống, chuyển dần sang những đường nét phong kiến phương bắc : nó là
biểu tượng thiên tử, bay lượn trên trời mây, bộ dáng oai vệ, hung hãn
phun ra lửa, mửa ra khói. Đầu mọc thêm sừng như con rồng nhà Minh. Rồng
phong kiến toàn thịnh dưới một triều đại phong kiến toàn thịnh : thời Lê
Thánh Tông (hình 11).
11. Rồng khắc bia Lê Thánh Tông
Nhà
Mạc ngắn ngủi (1527-1592) đã để lại một nghệ thuật tạo hình đáng kể :
con rồng nhà Mạc bớt vẻ uy nghi dù vẫn phương phi. Hình rồng uyển
chuyển, nét vẽ lưu loát như phục hồi nghệ thuật Việt Nam, dựa trên bố
cục toàn bộ, không ưu đãi những thành phần chính, phụ.
Rồng nhà Mạc
Khi
nhà Lê trung hưng (1592-1788) các vua chúa phục hồi lại hình rồng vương
giả trong nghệ thuật cung đình (hình 16). Nhưng xã hội đã đổi thay, đô
thị phát triển, hàng hóa luân lưu, ảnh hưởng nước ngoài… đã tạo ra nếp
sống khác; và phát triển văn học dân gian, truyện tiếu lâm, truyện nôm
và nghệ thuật dân gian, với con rồng dân gian còn thấy trong điêu khắc
gỗ : con rồng gia súc sống chung với gà lợn (hình 13), rồng ôm con cuộn
mình trong rơm ổ, rồng đùa nghịch với trẻ con (hình 14), rồng làm
phương tiện vận chuyển cho dân gian (Nguyễn Đỗ Cung, và Thái Bá Vân,
sđd).
16. Rồng Lê Mạt, tk XVIII
13.Rồng bị chó đuổi, khắc gỗ chùa Cói, thời Lê Mạt, TK XVII
14. Trẻ em đùa Rồng, khắc gỗ, tk XVII
Rồng
vui, tếu của dân gian đối lập với Rồng của triều đình, dù là thời Tây
Sơn (hình 17) hay thời Nguyễn Gia Miêu (hình 18). Đến thế kỷ XIX, nhà
Nguyễn giành độc quyền hình rồng cho biểu tượng vua chúa, và lại đúc
khuôn theo mẫu hình Rồng Trung Quốc.
17. đồng tiền Cảnh Thịnh, tk XVIII
18.Rồng bay, vẽ trên cửa sơn son thiếp vàng tại Huế, thời Nguyễn, TK XIX
Con
rồng nhà Nguyễn không độc đáo, nhưng gần gũi trong thời gian, nên quen
thuộc với chúng ta nhất. Các nhà lý luận mỹ thuật có khi chê tính cách
cầu kỳ, phức tạp của nó, nhưng con “rồng Huế” là thành phần văn hóa thân
thuộc trong tâm cảnh chúng ta ngày nay.
Họa sĩ Vĩnh Phối, gần đây đã có lời miêu tả nồng hậu : “nghệ
nhân Huế đã vận dụng biến hóa tài tình thành rồng Huế, thường có sừng
mọc ở vị trí tai, khác rồng Trung Quốc và rồng Lý Trần. Vảy bao phủ toàn
thân, một tứ bờm có ngạnh. Bờm và đuôi soắn tròn biến thành những ngọn
giáo đã xuất hiện thời Lê, chân có móng sắc. Những con rồng trang trí
thời Nguyễn có tình cách oai vệ, khí thế sinh động và toát lên uy quyền
nhà Nguyễn”.
Mô
hình trang trí khá phổ biến tại Huế, trong kiến trúc, điêu khắc ở cung
đình hay các nhà quyền quý, dưới dạng con giao bốn móng, hay con cù, gần
với cá sấu. Chỉ có con rồng năm móng là biểu tượng dành riêng cho bậc
đế vương.Trong một thuyết trình ngày 30-9-1914 tại Huế, P.Albrecht, có
mô tả chính xác mô típ rồng trong nghệ thuật trang trí Huế
Sử
sách ghi rõ là tổ tiên ta, từ thời Văn Lang đã có tục xâm hình thủy
quái trên thân thể để tránh tai nạn cá sấu. Có lẽ từ đó đã nảy ra truyền
thuyết Rồng Tiên. Hoặc là huyền thoại có trước. Nhưng nhất định là có
tương quan. Hình thủy quái ấy ra sao thì ta không biết, không chắc gì đã
giống con giao long trên các di tích thời Đông Sơn.
Mô
hình giao long sẽ biến đổi thành con rồng thời Lý, đặc sắc của dân tộc
truyền sang đời Trần. Đến đời Lê thì con rồng cung đình bị ảnh hưởng
Trung Quốc trong khi con rồng dân gian lại phát triển theo phong cách
riêng. Vào triều Nguyễn mô hình rồng bị triều đình chiếm hữu và, nói
chung, chịu ảnh hưởng Trung Quốc. Ngày nay, nó chỉ còn là một đề tài
trang trí, như trên bát đĩa thông dụng, và mất dần ý nghĩa tín ngưỡng
hay xã hội.
Từ
giao long đến con rồng hiện đại, mô hình đã nhiều lần biến chuyển,
nhưng không nhất thiết phải theo một lịch trình liên tục, đơn tuyến, vì
thường xuyên chịu ảnh hưởng thời cuộc, ngoại lai, có lúc bị áp đặt, có
khi vì giai cấp thống trị sao chép.Tuy nhiên,dù không lý luận đơn giản,
chúng ta cũng có thể kết luận mô hình rồng phản ánh nhiều nét lớn trong
lịch sử dân tộc.
Một
đề tài lớn lao và lý thú, là biểu tượng con rồng Việt Nam trong toàn
cảnh Đông Nam Á, và xa hơn nữa trong huyền thoại và truyền thuyết thế
giới. Một đề tài như thế sẽ đối chiếu nhiều ngành khoa học khác nhau và
nhất định mang lại nhiều kiến thức mới mẻ và lý thú.